Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm là gì? Các công bố khoa học về Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm

Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm, còn được gọi là ung thư phổi viêm phế quản không tế bào nhỏ (NSCLC), là một dạng ung thư phổi phổ biến. Giai đoạn s...

Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm, còn được gọi là ung thư phổi viêm phế quản không tế bào nhỏ (NSCLC), là một dạng ung thư phổi phổ biến. Giai đoạn sớm của NSCLC thường chỉ đề cập đến sự lan tỏa của khối u trong phổi và có thể chưa lan sang các cơ quan và mô xung quanh.

Các khối u NSCLC trong giai đoạn sớm thường nhỏ và không gây ra các triệu chứng rõ ràng. Điều này có nghĩa là ung thư thường không được phát hiện cho đến khi đã tiến triển đáng kể và lan rộng. Do đó, việc phát hiện sớm ung thư phổi giai đoạn sớm là rất quan trọng để tăng khả năng điều trị thành công.
Ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) là một dạng ung thư phổi phổ biến, chiếm khoảng 85% - 90% trong số các trường hợp ung thư phổi. NSCLC được chia thành ba loại chính: tế bào biểu mô phẳng (squamous cell carcinoma), tế bào tuyến (adenocarcinoma) và ung thư phổi không tế bào nhỏ khác (other NSCLCs) bao gồm tế bào lớp chủng (large cell carcinoma).

Giai đoạn sớm của NSCLC xác định mức độ lan tỏa của khối u trong phổi và xác định liệu nó đã lan tới các cơ quan và mô xung quanh không. Giai đoạn sớm NSCLC thường được phân thành các giai đoạn sau:

1. Giai đoạn 0 (Carcinoma in situ): Đây là giai đoạn sớm nhất của ung thư phổi. Khối u chỉ nằm trong lớp mô lành tính, chưa xâm lấn vào mô phổi hoặc các cấu trúc khác.

2. Giai đoạn I: Giai đoạn này chia thành hai giai đoạn con: IA và IB. Trong giai đoạn IA, khối u nhỏ, có kích thước nhỏ hơn 3 cm, không xâm lấn vào mô phổi xung quanh. Trong giai đoạn IB, khối u tương tự nhưng có kích thước lớn hơn hoặc xâm lấn sâu hơn vào mô phổi xung quanh.

3. Giai đoạn II: Giai đoạn này cũng phân thành hai giai đoạn con: IIA và IIB. Trong giai đoạn IIA, khối u có kích thước lớn hơn, vượt qua phủ bì phổi và có thể xâm lấn vào một phần hoặc toàn bộ của các lợi tử cận kề. Trong giai đoạn IIB, khối u có thể trở thành một tương tác lớn với các cấu trúc xung quanh, nhưng chưa lan ra khí quản hoặc các cơ quan khác.

Những giai đoạn trên chỉ mang tính chất tổng quan. Để xác định chính xác giai đoạn của NSCLC, các y bác sĩ phải dựa vào kết quả kiểm tra như chụp X-quang, CT scanner, hoặc xét nghiệm các mẫu mô từ việc phẫu thuật hoặc xác định diện tích của khối u.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm":

CẮT THUỲ PHỔI KÈM NẠO VÉT HẠCH ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC MỘT LỖ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Ung thư phổi là một trong những ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Kỹ thuật cắt thuỳ phổi kèm theo nạo vét hạch điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (I, II) bằng phẫu thuật nội soi một lỗ đã được các tác giả trên thế giới đồng thuận. Tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức đã triển khai thường quy phẫu thuật này, cần có những tổng kết và nhận xét tính khả thi của kỹ thuật. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu 37 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ từ tháng 01/2016 tới 06/2021, về các thông số trong và sau mổ cùng tỷ lệ biến chứng... Kết quả: Bao gồm 21 nam và 16 nữ. Tuổi trung bình 59,62 ± 8,79 (34 - 76). Thời gian phẫu thuật 150 ± 22,58 phút (90-195). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 5,59 ± 1,46 ngày (3- 9). Số ngày nằm viện trung bình 7,54 ± 1,86 ngày (4-12). Không có tử vong, tai biến và biến chứng nặng trong và sau mổ. Giai đoạn ung thư: 18 trường hợp giai đoạn I, 19 trường hợp giai đoạn II. Kết luận: Cắt thuỳ phổi kèm theo nạo vét hạch trong điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ là một kỹ thuật an toàn, khả thi và có nhiều ưu điểm.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ #cắt thuỳ phổi
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI LỒNG NGỰC MỘT LỖ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Đặt vấn đề: Ung thư phổi là một trong những ung thư thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Phẫu thuật là phương pháp điều trị được lựa chọn đầu tiên đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm (I, II) trong đó có phẫu thuật nội soi một lỗ. Tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức đã triển khai thường qui phẫu thuật này và có những tổng kết bước đầu nhưng vẫn cần có tổng kết và đánh giá kết quả một cách tổng quan của phương pháp. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, hồi cứu 37 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được điều trị bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ từ tháng 01/2016 tới 06/2021 về các thông số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu bệnh.... Kết quả: Bao gồm 21 nam và 16 nữ. Tuổi trung bình 59,62 ± 8,79 (34 - 76). Kích thước khối u trung bình 2,97 cm, trong đó kích thước nhỏ nhất 1 cm; lớn nhất 5cm. Thời gian phẫu thuật 150 ± 22,58 phút (90-195). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi trung bình 5,59 ± 1,46 ngày (3- 9). Số ngày nằm viện trung bình 7,54 ± 1,86 ngày (4-12). Không có tử vong, tai biến và biến chứng nặng trong và sau mổ. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ: 34 ung thư biểu mô tuyến và 2 ung thư biểu mô vảy, 1 ung thư khác. Giai đoạn ung thư: 18 trường hợp giai đoạn I, 19 trường hợp giai đoạn II. Kết luận: Điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ là một phương pháp an toàn, khả thi và có nhiều ưu điểm.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ #phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ
17. Đánh giá đáp ứng sau 3 tháng xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm theo tiêu chuẩn RECIST và PERCIST
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá đáp ứng sau 3 tháng xạ trị lập thể định vị thân ở bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) giai đoạn I với u phổi ngoại vi theo tiêu chuẩn RECIST 1.1 và PERCIST 1.0. Đây là nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 32 BN UTPKTBN giai đoạn T1-T2aN0M0 với u phổi ngoại vi, được xạ trị lập thể định vị thân và đánh giá sau 3 tháng từ tháng 01/2015 đến 03/2022. Đáp ứng điều trị sau 3 tháng được đánh giá theo RECIST 1.1 và PERCIST 1.0. Kết quả có sự thay đổi tỉ lệ giai đoạn T1a và T1b trên CT ngực lần lượt là 25% và 31,3% so với tỉ lệ tương ứng trên PET/CT là 18,8% và 37,5%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Theo RECIST 1.1, không có BN đáp ứng hoàn toàn, 41,4% đáp ứng 1 phần, 37,9% bệnh ổn định, 20,7% bệnh tiến triển, tỉ lệ đáp ứng khách quan 41,4%, tỉ lệ kiểm soát bệnh 79,3%. Theo PERCIST 1.0, có 1 BN đáp ứng hoàn toàn, các tỉ lệ khác lần lượt là 65,5%, 24,1%, 6,9%, 68,9% và 93%, sự khác biệt giữa 2 tiêu chuẩn có ý nghĩa thống kê với p = 0,021. Tóm lại: Sử dụng tiêu chuẩn PERCIST 1.0 làm thay đổi tỉ lệ đáp ứng điều trị có ý nghĩa thống kê so với tiêu chuẩn RECIST 1.1. Đặc biệt, 13,8% số bệnh nhân tiếp tục được hưởng lợi ích của xạ trị lập thể định vị thân sau khi đánh giá theo PERCIST 1.0.
#ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân #RECIST 1.1 #PERCIST 1.0
Kết quả điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm bằng xạ trị lập thể định vị thân
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn I (T1-T2aN0M0) không có chỉ định phẫu thuật bằng SBRT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 32 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn T1-T2aN0M0, u phổi ngoại vi, được SBRT, theo dõi và đánh giá từ tháng 01/2015 đến tháng 11/2021. Tiêu chuẩn chính là thời gian sống thêm bệnh không tiến triển (PFS). Tiêu chuẩn phụ là thời gian sống thêm toàn bộ (OS), tỷ lệ sống còn tại các thời điểm 1 năm, 2 năm, 3 năm, 4 năm, 5 năm và tác dụng không mong muốn. Kết quả: Trung vị độ tuổi là 67 tuổi, trung vị kích thước khối u là 2,65cm, giá trị SUVmax trung bình 7,95, giai đoạn của khối u chủ yếu là T2a (43,7%). Trung vị PFS 29 tháng, tỷ lệ PFS 2 năm và 3 năm lần lượt là 59,8% và 42,3%, trung vị OS 59 tháng, tỷ lệ OS tại thời điểm 1 năm là 96,8%, 2 năm 88,6%, 3 năm 84,2%, 4 và 5 năm lần lượt là 63,1% và 42,1%. BN đạt kiểm soát bệnh theo tiêu chuẩn PERCIST 1.0 giảm nguy cơ tử vong với HR = 0,053 (CI 95%: 0,003-0,86), p=0,039. Trung vị PFS ở nhóm SUVmax < 5 dài hơn so với nhóm có SUVmax ≥ 5, p=0,032. Cyfra 21-1 trước và sau SBRT, kích thước khối u là những yếu tố tiên lượng thời gian sống thêm. Tác dụng không mong muốn hay gặp là viêm phổi do xạ với 10 BN, chủ yếu độ 1, độ 2, không có viêm phổi do xạ độ 4, 5, có 1 trường hợp gãy xương sườn do xạ. Không có sự thay đổi chức năng hô hấp của BN sau SBRT. Kết luận: SBRT là một phương pháp điều trị triệt căn hiệu quả cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn sớm không phẫu thuật được với u phổi ngoại vi. Giá trị SUVmax trước điều trị, tỷ lệ kiểm soát bệnh tại thời điểm 3 tháng sau SBRT theo tiêu chuẩn PERCIST 1.0 và Cyfra 21-1 trước và sau điều trị là những yếu tố tiên lượng thời gian sống thêm của bệnh nhân. Đồng thời, SBRT là một phương pháp an toàn.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân
Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh PET/CT của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không thể phẫu thuật được điều trị hóa xạ đồng thời tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm, cận lâm sàng, hình ảnh PET/CT của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không thể phẫu thuật. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp, không đối chứng, theo dõi dọc. Bệnh nhân được sử dụng PET/CT trong chẩn đoán giai đoạn, lập kế hoạch xạ trị trong hóa xạ trị đồng thời và đánh giá kết quả điều trị, phác đồ hóa chất là paclitaxel/carboplatin, xạ điều biến liều IMRT với liều xạ mục tiêu 60Gy. Kết quả: Tuổi trung bình 58,23 tuổi, nam giới chiếm 83,33%, có tiền sử hút thuốc lá 86,67%, 70% bệnh nhân sút cân, 76,67% đau ngực, 60% ho kéo dài, tăng nồng độ Cyfra 21-1 huyết thanh 70,0% và tăng CEA 56,67%, ung thư biểu mô tuyến chiếm 73,33%, ung thư biểu mô vảy 26,67%. PET/CT phát hiện thêm hạch di căn 33,33% và làm thay đổi giai đoạn T, N đáng kể so với CT ngực. Kết luận: PET/CT giúp chẩn đoán chính xác hơn giai đoạn so với CT ngực, giúp lập kế hoạch xạ trị trong hóa xạ trị đồng thời giúp cải thiện thời gian sống thêm bệnh không tiến triển và sống thêm toàn bộ của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không thể phẫu thuật.
#Hóa xạ trị đồng thời #PET/CT #ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không thể phẫu thuật
Bước đầu đánh giá mối liên quan giữa nồng độ Cyfra 21-1 và tiên lượng sống thêm ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được điều trị bằng xạ trị lập thể định vị thân
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa Cyfra 21-1 và thời gian sống thêm ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được SBRT. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, theo dõi dọc 32 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn T1-T2aN0M0 với u phổi ngoại vi, được SBRT và đánh giá thời gian sống thêm từ tháng 01/2015 đến 11/2021. Mối liên quan với thời gian sống thêm (PFS và OS) của các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng được phân tích đa biến. Kết quả: Trung vị tuổi là 67 tuổi, có 35,5% bệnh nhân tăng CEA và 22,6% bệnh nhân tăng Cyfra 21-1 trước điều tri. Có mối tương quan thuận, mức độ trung bình, có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ Cyfra 21-1 và kích thước của khối u, với hệ số tương quan r = 0,4, p=0,024. Nồng độ Cyfra 21-1 trước điều trị thấp làm giảm nguy cơ bệnh tiến triển 44%, p=0,01. Ngược lại, nồng độ Cyfra 21-1 sau điều trị cao làm tăng nguy cơ tiến triển bệnh lên 1,6 lần, p=0,016. Nồng độ Cyfra 21-1 sau 3 tháng tăng làm tăng nguy cơ tử vong lên 2,9 lần với p=0,005.  Kết luận: Có mối liên quan giữa nồng độ Cyfra 21-1 trước điều trị với PFS, trong khi đó, Cyfra 21-1 sau 3 tháng điều trị liên quan với cả PFS và OS ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm được SBRT.
#Ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm #xạ trị lập thể định vị thân #Cyfra 21-1
41. KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT NỘI SOI 1 LỖ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2022
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CD3 - Bệnh viện Phổi Trung ương - Trang - 2024
Tổng quan: Ung thư phổi là loại ung thư gây tử vong hàng đầu tại Việt Nam. Phẫu thuật nội soi lồng ngực cắt thùy phổi được chỉ định để điều trị cho các trường hợp ung thư phổi không tế bào nhỏ có giai đoạn phù hợp.Tại Bệnh viện Phổi Trung ương đã thực hiện thường quy kỹ thuật phẫu thuật lồng ngực nội soi 1 lỗ điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên các bệnh nhân dược phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi 1 lỗ ở Bệnh viện Phổi Trung ương nhằm đánh giá tính khả thi và độ an toàn của phẫu thuật. Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu từ tháng 1 năm 2022 đến tháng 12 năm 2022 trên 84 bệnh nhân được cắt thùy phổi nội soi điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Kết quả: Hầu hết các bệnh nhân đều ở giai đoạn sớm, có 8 bệnh nhân giai đoạn IIIA, thời gian mổ là trung bình là 180 phút, thời gian nằm viện trung bình là 8,8 ngày. Có 01 trường hợp chảy máu sau mổ và 1 trường hợp rò khí kéo dài sau mổ. Kết luận: Phẫu thuật nội soi 1 lỗ cắt thùy phổi tại Bệnh viện Phổi Trung ương cho thấy tính khả thi và an toàn mặc dù còn nhiều vấn đề cần cải thiện để nâng cao chất lượng điều trị.  
#Ung thư phổi #phẫu thuật nội soi lồng ngực #phẫu thuật cắt thùy phổi.
51. ĐÁNH GIÁ TÍNH CHẤT HẠCH BẠCH HUYẾT TRƯỚC VÀ SAU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN SỚM TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 65 Số CĐ10 - Bệnh viện Thống Nhất - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) là một ung thư thường gặp, nguyên nhân tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư. Phẫu thuật khi bệnh ở giai đoạn sớm là phương pháp điều trị hiệu quả. Có một số yếu tố giúp xác định giai đoạn, hạch trung thất có vai trò quan trọng nên cần đánh giá đặc điểm hạch trung thất và kết quả phẫu thuật. Phương pháp: Hồi cứu mô tả các trường hợp UTPKTBN giai đoạn sớm; có đánh giá hạch trung thất và phẫu thuật cắt phổi (VATS) tại bệnh viện Thống Nhất từ tháng 01/2020 đến tháng 01/2024. Kết quả: 51 trường hợp, 32 nam, 19 nữ. Tuổi trung bình là 59,1 tuổi. Bệnh có triệu chứng 72,5%; 100% chụp CT, 1 trường hợp chụp PET. 14 trường hợp nạo hạch thấy trong phẫu thuật. Trước phẫu thuật: Hạch N1 là 11,7%, sau phẫu thuật hạch N1 là 11,7%, N2 là 11,7%. Mô bệnh học Adenocarcinoma 64,7%. Thời gian phẫu thuật trung bình: 119,2 ± 33,79 phút. Thời gian nằm viện trung bình: 10,8 ± 02,1 ngày. 06 trường hợp chuyển phẫu thuật mở. Biến chứng viêm phổi 29,4%; rò khí dai dẳng là 09,6%; chảy máu 15,7% (01 trường hợp chảy máu động mạch tại miệng cắt khi dùng 1 stapler cắt 02 động mạch cùng lúc). Không có trường hợp tử vong phẫu thuật. Kết luận: Xác định giai đoạn bệnh có vai trò rất quan trọng trong điều trị UTPKTBN giai đoạn sớm. Hạch di căn thay đổi khi phẫu thuật đánh giá, có 23,4% hạch di căn phát hiện trong phẫu thuật. Cắt thùy phổi nội soi với video hỗ trợ cho kết quả khả quan.
#ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) #giai đoạn sớm #phẫu thuật nội soi
Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ và hai lỗ ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm tại Bệnh viện Phổi Trung ương
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 183 Số 10 - Trang 131-139 - 2024
Phẫu thuật nội soi là được xem là tiêu chuẩn vàng cho điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu 465 bệnh nhân ung thư phổi không tế bảo nhỏ giai đoạn sớm, được phẫu thuật nội soi cắt u phổi từ năm 06/2016 đến năm 12/2023. Kết quả: Trong 465 bệnh nhân, 159 bệnh nhân phẫu thuật nội soi lồng ngực một lỗ (34,2%), 306 bệnh nhân phẫu thuật nội soi hai lỗ (65,8%), đa phần bệnh nhân được phẫu thuật cắt một thùy phổi (97,2%), thời gian mổ trung bình là 140 phút với phẫu thuật nội soi một lỗ và 145 phút với phẫu thuật nội soi hai lỗ, lượng máu mất trong phẫu thuật giữa hai phương pháp có chênh lệch không đáng kể (trung bình 130ml so với 142ml). Phẫu thuật nội soi một lỗ có ưu điểm hơn hai lỗ về cả ba tiêu chí giảm đau sau mổ đánh giá theo thang điểm VAS, thời gian rút dẫn lưu và thời gian nằm viện sau mổ. Không có sự khác biệt về biến chứng sau mổ, DFS và OS ở 2 nhóm nnghiên cứu.
#Ung thư phổi giai đoạn sớm #phẫu thuật nội soi #một lỗ #hai lỗ
Dự đoán chính xác di căn hạch bạch huyết âm tính với sự xem xét về chuyển hóa glucose trong ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn sớm Dịch bởi AI
General Thoracic and Cardiovascular Surgery - Tập 72 - Trang 24-30 - 2023
Chúng tôi nhằm xác định các yếu tố nguy cơ trong di căn hạch bạch huyết ở bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) giai đoạn sớm và dự đoán di căn hạch bạch huyết. Tổng cộng có 416 bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn lâm sàng IA2-3 đã trải qua phẫu thuật lobectomy và cắt hạch bạch huyết từ tháng 7 năm 2016 đến tháng 12 năm 2020 tại Bệnh viện Trung ương Phòng chống Ung thư Quốc gia. Phân tích hồi quy logistic đa biến đã được thực hiện để phát triển một mô hình dự đoán di căn hạch bạch huyết. Phương pháp kiểm tra chéo loại bỏ một phần đã được sử dụng để đánh giá mô hình dự đoán đang phát triển, trong khi độ nhạy, độ đặc hiệu và các thống kê đồng thuận đã được tính toán để đánh giá hiệu suất chẩn đoán của nó. Công thức tính toán xác suất di căn hạch bạch huyết được xác nhận có tổn thương bao gồm SUVmax của khối u nguyên phát và mức CEA trong huyết thanh. Các chỉ số đồng thuận đạt giá trị 0.7452. Khi giá trị ngưỡng liên quan đến nguy cơ dự đoán sai di căn hạch bạch huyết được thiết lập ở mức 7.2%, độ nhạy và độ đặc hiệu trong việc dự đoán di căn lần lượt là 96.4% và 38.6%. Chúng tôi đã tạo ra một mô hình dự đoán di căn hạch bạch huyết trong ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng cách kết hợp SUVmax của khối u nguyên phát và mức CEA trong huyết thanh, cho thấy mối quan hệ đặc biệt mạnh mẽ. Mô hình này rất hữu ích lâm sàng vì nó dự đoán thành công di căn hạch bạch huyết âm tính ở bệnh nhân mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn lâm sàng IA2-3.
#di căn hạch bạch huyết #ung thư phổi không tế bào nhỏ #mô hình dự đoán #SUVmax #mức CEA trong huyết thanh
Tổng số: 13   
  • 1
  • 2